Nhật Bản vẫn là thị trường tiềm năng và ổn định đối với Tôm Việt (09-07-2025)

Tại Việt Nam, tôm tiếp tục dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Tính đến hết tháng 5/2025, xuất khẩu tôm đạt trên 1,71 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng trong tháng 5, xuất khẩu tôm đạt trên 415 triệu USD – là mức cao nhất kể từ đầu năm.
Nhật Bản vẫn là thị trường tiềm năng và ổn định đối với Tôm Việt
Ảnh minh hoạ

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tôm thẻ chân trắng dẫn dắt tăng trưởng, tôm sú phục hồi ở phân khúc cao cấp. Từ đầu năm đến nay, xuất khẩu tôm của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng tốt với cả tôm thẻ chân trắng và tôm sú, đồng loạt tăng trưởng cả về sản lượng và giá trị. Trong 5 tháng đầu năm 2025, bốn thị trường hàng đầu về nhập khẩu tôm của Việt Nam gồm có: Trung Quốc 494 triệu USD, Mỹ 294 triệu USD, Nhật Bản 218 triệu USD và EU 202 triệu USD. Trong đó, Trung Quốc và Mỹ chứng kiến ​​sự gia tăng của tôm thẻ chân trắng

Tháng 5/2025, xuất khẩu tôm thẻ chân trắng đạt 30.089 tấn, tăng 23% so với tháng 4 và tăng 6% so với cùng kỳ năm trước. Các sản phẩm tôm thẻ chân trắng xuất khẩu chính gồm: tôm thẻ luộc không đầu, lột vỏ chừa đuôi đông lạnh, tôm sushi, tôm hấp, tôm tẩm bột chiên kèm nước xốt... Top 5 doanh nghiệp xuất khẩu tôm thẻ chân trắng trong 5 tháng đầu năm gồm: STAPIMEX, Minh Phú Hậu Giang, Sao Ta, Minh Phú và Cases.

Các thị trường chủ lực như Mỹ, Trung Quốc và Hồng Kông ghi nhận mức tăng trưởng rất mạnh, lần lượt đạt +72% và +59%. Hàn Quốc tăng 20%, EU tăng 14% và Nhật Bản tăng 3%, trong khi Anh là thị trường duy nhất ghi nhận sụt giảm với mức giảm 5% so với tháng trước. Giá xuất khẩu trung bình của tôm thẻ đạt 9,01 USD/kg, tăng nhẹ 1% so với tháng 4.

Tại thị trường nội địa, giá tôm thẻ tại trại đã tăng từ 5-7% (ở tất cả các cỡ) nhờ nhu cầu xuất khẩu tăng cao, đặc biệt là từ phía Mỹ, nơi các nhà chế biến đẩy mạnh mua nguyên liệu để hoàn tất đơn hàng trước thời điểm hết hiệu lực hoãn thuế quan đối ứng.

Mỹ tiếp tục là điểm sáng khi ghi nhận lượng nhập khẩu tôm thẻ chân trắng Việt Nam trong tháng 5 đạt 7.060 tấn – mức cao nhất kể từ tháng 10/2024 – với giá trung bình 11,60 USD/kg, tăng 0,9% so với tháng trước. Các sản phẩm tôm thẻ chân trắng xuất khẩu chủ lực sang thị trường này gồm tôm lột vỏ còn đuôi, tôm bỏ chỉ lưng, tôm không đầu còn vỏ – đều có mức tăng trưởng mạnh cả về khối lượng và giá trị.

Xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 4.500 tấn, cũng là mức cao nhất kể từ tháng 10, dù giá trung bình giảm 3% còn 6,50 USD/kg. EU tiếp tục là thị trường ổn định, với khối lượng đạt 4.600 tấn và giá trung bình giảm nhẹ 1,3% xuống còn 7,60 USD/kg. Nhật Bản duy trì khối lượng ở mức 3.700 tấn, giá tăng 4,4% lên 9,40 USD/kg; Hàn Quốc đạt 3.500 tấn với giá trung bình giữ nguyên ở mức 7,90 USD/kg.

Tôm sú chiếm lĩnh phân khúc cao cấp, được xuất khẩu chủ yếu dưới các dạng: tôm bỏ đầu PTO/PDTO, tôm nguyên con, tôm lột vỏ đông lạnh, tôm hấp, tôm HLSO. Trong khi tôm thẻ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch, tôm sú lại thể hiện sức bật ở phân khúc cao cấp với tốc độ tăng trưởng ổn định trong tháng 5/2025. Sản lượng xuất khẩu tôm sú đạt 4.353 tấn, tăng 8% so với tháng trước và 6% so với cùng kỳ năm 2024. Top doanh nghiệp xuất khẩu tôm sú gồm: Minh Phú, Minh Phú Hậu Giang, Camimex, Minh Cường, Tôm Miền Nam.

Xuất khẩu tôm sú sang Nhật Bản tăng 24%, sang Mỹ tăng 44%, EU tăng 26%, Hàn Quốc tăng 12% và Vương quốc Anh tăng 20%. Ngược lại, Trung Quốc và Hồng Kông – hai thị trường lớn nhất của tôm sú Việt Nam – giảm nhẹ 1%. Giá xuất khẩu trung bình của tôm sú tăng 4%, đạt 11,82 USD/kg. Tuy nhiên, sản lượng tôm nguyên liệu giảm nhẹ 2% còn 24.000 tấn, sau khi tăng mạnh 32% trong tháng 4. Nguồn cung tôm cỡ lớn tăng lên khiến giá tại trại có xu hướng điều chỉnh. Cụ thể, tôm sú cỡ 20–40 con/kg giảm 2%, cỡ 50 con/kg giữ nguyên, trong khi cỡ 80 con/kg giảm tới 9%. Dự báo trong tháng 6, nguồn cung tiếp tục cải thiện.

Tại Mỹ, lượng nhập khẩu tôm sú từ Việt Nam đạt 600 tấn, giá tăng mạnh lên 17,10 USD/kg, cao nhất trong số các thị trường. Nhật Bản nhập khẩu 886 tấn, giá tăng 6% lên 12,40 USD/kg. EU ghi nhận tháng tăng thứ tư liên tiếp, đạt 390 tấn trong tháng 5; song, giá đã giảm 6,1% còn 10,70 USD/kg. Hàn Quốc nhập gần 200 tấn, giá trung bình giảm mạnh 30% xuống còn 8,30 USD/kg. Trung Quốc giữ ổn định khối lượng ở mức 1.300 tấn, nhưng giá tiếp tục giảm thêm 3,3% còn 8,90 USD/kg.

Tôm sú Việt Nam hiện đang chiếm ưu thế tại các thị trường cao cấp như Nhật Bản, EU, Thụy Sỹ – nơi ưa chuộng dòng tôm sú sinh thái nuôi tại rừng ngập mặn, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và đạt tiêu chuẩn bền vững. Đây là phân khúc có giá trị cao và khả năng tăng trưởng mạnh trong tương lai.

Tuy nhiên, tôm sú Việt Nam đang phải cạnh tranh mạnh hơn với Ấn Độ khi nước này đang tái cơ cấu đẩy mạnh nuôi tôm sú do giá trị cao hơn. Tại bang Andhra Pradesh, nông dân đã bắt đầu áp dụng mô hình nuôi hai vụ tôm sú trong năm thay vì một vụ như truyền thống, thu hoạch các cỡ nhỏ 30–50 con/kg để phục vụ thị trường châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Lợi thế truyền thống xuất khẩu tôm sang Nhật

Nhật Bản là thị trường nhập khẩu đơn lẻ đứng thứ 3 của tôm Việt Nam, chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam. Tháng 5 năm nay, xuất khẩu tôm sang thị trường này đạt 49 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm sang thị trường này đạt hơn 218 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái. Xu hướng tăng trưởng trong 5 tháng đầu năm là tiếp nối đà tăng trưởng trong nửa cuối năm 2024. Năm 2024, xuất khẩu tôm sang thị trường này đạt 517 triệu USD.

Trong những năm trước, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Nhật Bản thường giảm hoặc tăng trưởng nhẹ. Tuy nhiên, trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Nhật Bản ghi nhận tăng trưởng 14% là tín hiệu tích cực, phản ánh phần nào sự dịch chuyển thị trường trước những thách thức thuế quan từ Mỹ. Song, xu hướng tăng trưởng này vẫn đang chịu nhiều áp lực từ yếu tố tỷ giá và sự dịch chuyển của các đối thủ như Indonesia.

Nhật Bản là thị trường tiêu thụ tôm có yêu cầu cao về chất lượng, hình thức và mức độ chế biến. Người tiêu dùng nước này ưa chuộng các sản phẩm tôm tinh chế như tôm bao bột, tôm chiên, tôm sushi, tôm duỗi… – những dòng sản phẩm vốn là thế mạnh của doanh nghiệp Việt. Hiện trên 90% tôm Việt Nam xuất sang Nhật là hàng chế biến có giá trị gia tăng (GTGT). Tuy nhiên, tỷ giá đồng yên yếu đã làm giảm sức mua đáng kể. Trong những năm gần đây, đồng JPY đã mất giá tới 40% khiến giá nhập khẩu tôm (tính theo yên) trở nên đắt đỏ, làm giảm sức tiêu thụ. Mặt khác, thị trường Nhật Bản luôn đặt ra các quy định khắt khe cho các nhà xuất khẩu, cũng là một yếu tố tác động mạnh tới hoạt động xuất khẩu tôm sang thị trường này.

Áp lực cạnh tranh với các nguồn cung khác

Indonesia là đối thủ đang nổi lên mạnh mẽ tại thị trường Nhật. Cũng đối mặt với nguy cơ bị áp thuế đối ứng cao từ Mỹ, quốc gia này đang nỗ lực chuyển hướng sang EU và Nhật để tiêu thụ khoảng 360.000–400.000 tấn tôm thẻ hàng năm. Các nhà sản xuất và xuất khẩu Indonesia đã công bố chiến lược đa dạng hóa, và Nhật Bản cũng là thị trường ưu tiên hàng đầu. 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tôm từ Indonesia sang Nhật đạt 101 triệu USD, tăng 9,4%.

Cũng trong giai đoạn này, xuất khẩu tôm từ Việt Nam tăng 12,6% lên hơn 150 triệu USD. Song, khoảng cách với Indonesia đang thu hẹp và nếu không có chiến lược hiệu quả, Việt Nam có thể đánh mất vị trí dẫn đầu tại thị trường Nhật Bản.

Ngoài Indonesia, Nhật Bản cũng tăng nhập khẩu tôm từ Ecuador (+49,9%) và Ấn Độ (+5%). Điều này phản ánh xu hướng của các nhà cung cấp đang tìm cách đa dạng hóa thị trường trong bối cảnh thuế Mỹ. 4 tháng đầu năm 2025, Nhật Bản đã nhập khẩu tôm đạt giá trị 604 triệu USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ưu thế của tôm Việt

Trong cơ cấu sản phẩm tôm xuất sang Nhật Bản, tôm thẻ chân trắng chiếm 67%, tôm sú chiếm 18%. Các sản phẩm GTGT như tôm chiên, tôm sushi-ready là lợi thế cạnh tranh chính của Việt Nam. Trình độ chế biến cao, mẫu mã đẹp và kiểm soát chất lượng tốt giúp tôm Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trong các hệ thống phân phối lớn tại Nhật. Để giữ vững và mở rộng thị phần, Việt Nam cần liên tục cải thiện chất lượng, giảm giá thành và đầu tư vào mô hình nuôi bền vững – hướng đi được người tiêu dùng Nhật Bản và quốc tế đánh giá cao.

Theo VASEP, Nhật Bản vẫn là thị trường giàu tiềm năng và khá ổn định đối với tôm Việt. Để đẩy mạnh xuất khẩu tôm sang Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường xuất khẩu sản phẩm chế biến GTGT phù hợp với thị hiếu tiêu dùng tại quốc gia này (bao gồm: tôm bao bột, chiên, sushi, ready-to-eat…). Đồng thời, tuân thủ nghiêm ngặt quy định về an toàn thực phẩm, đầu tư vào mô hình nuôi thân thiện với môi trường, hướng tới sản phẩm “xanh - sạch” và điều chỉnh chiến lược giá linh hoạt trước sự biến động tỷ giá của đồng yên.

Tính đến nay, kết quả xuất khẩu tôm của Việt Nam tới các thị trường lớn trên thế giới khá khả quan. Tuy nhiên, triển vọng trong nửa cuối năm 2025 vẫn còn nhiều ẩn số.

Ngọc Thúy - FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác